Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2009

The End

Bọn em chúc Thầy Thành Công!
Nhớ khao bọn em sau khi tốt nghiệp

Tạm biệt!

Tạm biệt các bạn nhé!
Khi nào Thầy ÂN cho học lại học tiếp nghe.
Mà mai nhớ đi học trên lớp đầy đủ.

Tổng kết

Trời ạ!
Blog nhóm tớ xấu quá!

Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2009

Vũ trụ bao la ẩn chứa những bí mật nào bên trong?

Kháng vật chất
Giống như siêu nhân hay người dơi, các phân tử cấu thành nên vật chất luôn có những phiên bản đối nghịch với chúng. Chẳng hạn, một electron có điện tích âm, nhưng kháng vật chất của nó, positron, có điện tích dương. Vật chất và kháng vật chất hủy diệt lẫn nhau khi va chạm và khối lượng của chúng biến thành năng lượng theo công thức E=mc2 của Einstein. Trong tương lai, một số tàu vũ trụ sẽ được trang bị động cơ kháng vật chất.
Những lỗ đen siêu nhỏ (Hàng vạn "tiểu lỗ đen" như thế này đang nằm rải rác trong hệ mặt trời. ) Nếu một lý thuyết mới về lực trọng trường được chứng minh là đúng thì có thể nói rằng, nằm rải rác trong hệ mặt trời của chúng ta là hàng chục nghìn lỗ đen siêu nhỏ, mỗi cái có kích thước chỉ bằng hạt nhân nguyên tử. Không giống như lỗ đen khổng lồ mà người ta thường nói đến, lỗ đen siêu nhỏ là tàn dư của vụ nổ lớn (Big Bang) - sự kiện được cho là khai sinh ra vũ trụ. Chúng tác động tới không-thời gian theo một cách thức hoàn toàn khác với lỗ đen khổng lồ do có mối liên hệ với chiều thứ năm trong không gian.
Bức xạ tàn dư của vũ trụ Được biết đến với ký hiệu CMB (Cosmic Microwave Background), loại bức xạ này là những dạng vật chất đầu tiên được sinh ra từ vụ nổ lớn Big Bang. Năm 1965, hai nhà khoa học Arno Penzias và Robert Wilson thuộc một viện nghiên cứu của hãng Bell Telephone, khi cố gắng giảm tiếng ồn ở một ăngten để có thể liên lạc tốt hơn với vệ tinh Echo, đã bất ngờ phát hiện ra những chùm sóng vi ba tới từ vũ trụ. Ngay trong năm đó, nhiều nhà khoa học đã xác định rằng các sóng vi ba đó chính là bức xạ tàn dư của vụ nổ lớn. Những nghiên cứu mới nhất cho thấy nhiệt độ của CMB vào khoảng -270 độ C. CMB còn được gọi bằng một tên khác: bức xạ phông vi ba của vũ trụ
Vật chất đen (Vật chất đen)
Các nhà khoa học nghĩ rằng vật chất đen chiếm phần lớn lượng vật chất trong vũ trụ. Nhưng ngay cả khi có được các công nghệ hiện đại nhất, họ vẫn chưa thể chứng minh được giả thuyết đó. Người ta cho rằng các hạt neutrino siêu nhẹ và những lỗ đen không nhìn thấy chính là một phần của vật chất đen. Mặc dù vậy, nhiều nhà thiên văn học vẫn nghi ngờ về sự tồn tại của nó. Họ cho rằng những bí ẩn xung quanh vật chất đen chỉ có thể được giải thích khi chúng ta hiểu rõ hơn về lực trọng trường.
Ngoại hành tinh (Một ngoại hành tinh nằm ngoài hệ mặt trời)
Cho đến tận đầu những năm 90, giới thiên văn học mới chỉ biết đến những hành tinh có cấu tạo và quỹ đạo tương tự những hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta. Nhưng kể từ đó tới nay, các nhà khoa học đã phát hiện được 209 hành tinh nằm ngoài thái dương hệ. Được gọi là ngoại hành tinh, những thiên thể này có cấu tạo đa dạng. Chúng có thể là những đám bụi khí lớn có khối lượng không đáng kể cho tới một quả cầu đá khổng lồ quay quanh những ngôi sao lùn đỏ. Tuy nhiên, nỗ lực tìm kiếm một hành tinh giống hệt trái đất vẫn chưa mang đến bất kỳ kết quả khả quan nào. Nhìn chung, các nhà thiên văn học tin rằng những công nghệ tương lai sẽ giúp con người tìm ra những hành tinh giống như Trái Đất.
Sóng trọng trường
Ngay từ năm 1916, nhà vật lý thiên tài Einstein đã tiên đoán về sự tồn tại của sóng trọng trường trong thuyết tương đối tổng quát của ông. Theo định nghĩa của Einstein, sóng trọng trường là những nhiễu loạn hình học của không-thời gian lan truyền với tốc độ ánh sáng. (Về hình dạng, sóng trọng trường không khác gì sóng trên mặt nước) Về nguồn phát sinh, có giả thiết cho rằng những thiên thể nặng và di chuyển nhanh có thể phát ra sóng trọng trường, giống như hiện tượng phát sóng điện từ của các hạt mang điện. Tuy nhiên, có người lại cho rằng chỉ có những vật thể không có dạng hình cầu mới phát sóng trọng trường. Do sóng trọng trường rất yếu nên các nhà khoa học không thể tạo ra nó trong phòng thí nghiệm. Họ buộc phải trông chờ vào những sự kiện dữ dội trong vũ trụ, chẳng hạn như sự sáp nhập của hai lỗ đen hay hai ngôi sao neutron, mới có thể đo đạc được loại sóng này.
Những "kẻ ăn thịt" trong vũ trụ
Giống như những sinh vật trên Trái Đất, các thiên hà có thể "ăn" lẫn nhau và nhờ đó mà chúng tiến hóa. Andromeda, thiên hà nằm sát dải Ngân hà, đang trong quá trình nuốt chửng nhiều vệ tinh của nó. Hơn một chục chòm sao nằm rải rác khắp Andromeda. Các nhà khoa học cho rằng chúng là tàn dư còn sót lại sau những "bữa ăn" của thiên hà. Hình ảnh bên phải mô phỏng hiện tượng va chạm giữa Andromeda và dải Ngân hà của chúng ta , một hiện tượng chỉ xảy ra khoảng 3 tỷ năm một lần.
Hạt neutrino
Chúng là những hạt cơ bản có điện tích trung hòa và hầu như không có trọng lượng. Neutrino có thể đi xuyên qua một lớp chì dày hàng chục km. Một số neutrino đang đi xuyên qua cơ thể bạn khi bạn đọc bài báo này. Những hạt "ma" này được tạo ra ở bên trong những đám lửa của các ngôi sao và những vụ nổ khủng khiếp (supernova) của các ngôi sao sắp chết.
Quasar
Chúng là những thiên thể có đường kính dưới một năm ánh sáng nhưng lại là nguồn phát bức xạ mạnh nhất. Dù nằm ở tận rìa vũ trụ, ánh sáng của các quasar vẫn tới được hành tinh của chúng ta. Sự tồn tại của chúng nhắc nhở các nhà khoa học về tình trạng hỗn mang trong buổi bình minh sơ khai của vũ trụ.
Năng lượng mà một quasar giải phóng ra lớn hơn nhiều so với năng lượng của hàng trăm thiên hà. Sau đây là điều duy nhất mà các nhà khoa học đồng ý được với nhau: quasar là những lỗ đen khổng lồ nằm ở trung tâm của những thiên hà xa xôi. Năng lượng chân không Vật lý lượng tử nói với chúng ta rằng những khoảng trống trong vũ trụ là nơi trú ngụ của những hạt vật chất có kích thước nhỏ hơn hạt nhân (được gọi là hạt hạ nguyên tử). Chúng liên tục được sinh ra và hủy diệt. Sự tồn tại ngắn ngủi của các hạt hạ nguyên tử mang đến từng cm khối không gian một năng lượng nhất định. Theo thuyết tương đối tổng quát, năng lượng này tạo ra một lực phản trọng trường khiến không gian giãn nở. Tuy nhiên, cho đến nay điều này vẫn chưa được kiểm chứng. Chẳng ai biết nguyên nhân thực sự gây ra sự giãn nở với tốc độ ngày càng tăng của vũ trụ.

Vũ trụ được cấu tạo từ những loại thiên thể nào?

Thành phần:
Các quan sát về vũ trụ hiện nay cho thấy nó là một không-thời gian phẳng (trên thang vĩ mô) chứa mật độ năng lượng-khối lượng 9,9 × 10-30 gam trên xentimét khối. Trong đó có 73% năng lượng tối (suy từ hình dạng không thời gian), 23% vật chất tối (suy từ quỹ đạo cả các thiên hà và đo đạc về lỗ đen) và 4% các nguyên tố hóa học (suy từ quan sát các thiên thể phát ra ánh sáng hay bức xạ điện từ) [1] Bản chất của vật chất tối và năng lượng tối vẫn chưa được hiểu kỹ.
Trong thời kỳ đầu của Vụ Nổ Lớn, vật chất thông thường và phản vật chất cùng được sinh ra với khối lượng bằng nhau. Tuy nhiên, do vi phạm đối xứng CP, lượng vật chất thông thường dần chiếm tỷ lệ cao hơn. Phần vật chất và phản vật chất còn lại tự hủy cặp với nhau để sinh ra photon, và vũ trụ còn lại lượng vật chất thông thường dư thừa như ngày nay.[2]
Trước khi những sao đầu tiên hình thành, thành phần hóa học của vũ trụ chứa chủ yếu hydro (75% khối lượng tổng cộng), và một phần helium-4 (4He) (24% khối lượng tổng cộng) cùng với một chút các nguyên tố hóa học còn lại.[3] Một lượng nhỏ là đồng vị đơtơri, 3He và liti (7Li).[4] Sau đó, qua các thế hệ sao sinh ra và chết đi, không gian giữa các sao được bổ sung thêm các sản phẩm của các phản ứng nhiệt hạch, thường được phóng ra bởi các vụ nổ của siêu tân tinh, gió sao...[5]
Vụ Nổ Lớn còn để là một lượng lớn các photon (ở dạng bức xạ nền đã quan sát được) và neutrino. Nhiệt độ của bức xạ nền giảm đều đặn khi vũ trụ nở ra, và nay xuống còn 2,725 K, ứng với cực đại bức xạ ở sóng vi ba.[6] Mật độ của nền neutrino ngày nay vào khoảng 150 hạt trên xentimét khối.


Hình dáng vũ trụ là một câu hỏi quan trọng trong vũ trụ học.
Câu hỏi đầu tiên là vũ trụ của chúng ta "phẳng" và tuân thủ hình học Euclid trên khoảng cách vĩ mô, hay không? Hiện nay, đa số các nhà vũ trụ học tin là vũ trụ quan sát được khá phẳng, chỉ có những chỗ không-thời gian méo địa phương do sự tập trung mật độ vật chất cao bất thường (như ở hố đen). Nhận xét này được củng cố bởi bằng chứng thực nghiệm của WMAP, một thí nghiệm nhìn vào "dao động" của phông vi sóng vũ trụ.
Câu hỏi thứ hai là vũ trụ của chúng ta có đa liên thông hay không? Theo mô hình của Vụ Nổ Lớn, vũ trụ của chúng ta không có biên giới, nhưng vẫn có thể chỉ chứa lượng không gian hữu hạn. Điều này tương tự như bề mặt của hình cầu: bề mặt này không có biên giới, nhưng diện tích bề mặt hữu hạn (4πR2); chúng ta đi trên bề mặt này theo một "đường thẳng" thì rồi sẽ lại vòng về chỗ cũ. Ví dụ ba chiều tương đương gọi là "không gian cầu" khám phá bởi Bernhard Riemann, với thể tích (2π2R3). Nếu vũ trụ của ta cũng tương tự vậy, khi ta đi theo "đường thẳng", ta sẽ trở lại điểm xuất phát sau khi đã đi hết "chu vi" của vũ trụ. Điều này cũng dẫn đến một kết quả thú vị là ta có thể nhìn thấy nhiều ảnh của cùng một ngôi sao, do ánh sáng từ nó có thể đi nhiều vòng quanh vũ trụ trước khi đến mắt ta (tương tự như nhiều ảnh của một ngọn nến nằm giữa hai gương song song). Câu hỏi này còn chưa được trả lời một cách dứt khoát, nhưng với kết quả về vũ trụ phẳng, khả năng về một vũ trụ đa liên thông là thấp.

Vũ trụ được hình thành như thế nào?


Vũ trụ là toàn bộ hệ thống không-thời gian trong nó chúng ta đang sống, chứa toàn bộ năng lượng hay vật chất. Môn học nghiên cứu vũ trụ, trên những khoảng cách lớn nhất có thể, là vũ trụ học, một môn khoa học kết hợp giữa vật lý và thiên văn.
Vũ trụ học, về cuối thế kỷ 20, được phân làm hai nhánh chính: thực nghiệm (vũ trụ học thực nghiệm) và lý thuyết (vũ trụ học lý thuyết). Các nhà vũ trụ học thực nghiệm đã gần như từ bỏ hy vọng có thể quan sát được toàn bộ vũ trụ; trong khi đó, các nhà vũ trụ học lý thuyết vẫn phát triển các mô hình cho toàn bộ vũ trụ, bất chấp khả năng các lý thuyết này sẽ không có đủ bằng chứng thực nghiệm để kiểm chứng.
Các từ "vũ trụ quan sát được", "vũ trụ nhìn thấy" là dành cho vũ trụ mà con người có thể cảm nhận được qua các phương tiện thực nghiệm.

Tiểu sử S.Hawking


Hawking sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942, tại Oxford, Anh quốc đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo. Cha mẹ ông là Frank và Isobel Hawking, trước Đệ nhị thế chiến họ sống ở miền bắc London nhưng sau đó chuyển đến Oxford cho an toàn. Hai năm cuối ở trung học St Albans, Oxford, Hawking rất thích thú với môn toán vì có cảm hứng từ một người thầy ở trường này. Nhưng cha ông, một dược sỹ lại phản đối ý kiến của con trai mà muốn ông học ngành hóa học. Một phần bị thuyết phục bởi người cha, sau khi tốt nghiệp, Hawking theo học University College ở Oxford, đây chính là trường mà cha ông từng theo học trước đây. Nhưng trường này không có ngành toán, chính vì thế mà ông theo học ngành vật lý và tốt nghiệp loại xuất sắc. Sau đó ông chuyển đến Đại học Cambridge để tiếp tục theo đuổi luận án tiến sỹ về vũ trụ học.

University College ở Oxford
Trong thời gian làm luận án, người ta phát hiện ra Hawking bị mắc một chứng
bệnh về thần kinh có tên là bệnh Lou Gehrig: ông gần như mất hết khả năng cử động. Các bác sỹ nói rằng ông không sống lâu để có thể hoàn thành luận án tiến sỹ. Sau này, ông phải phẫu thuật cắt khí quản và không còn khả năng nói chuyện bình thường được nữa. Ông bị gắn chặt vào chiếc xe lăn, chỉ có thể nói được qua một thiết bị tổng hợp tiếng gắn với một máy tính mà ông gõ chữ vào đó. Tuy vậy, luận án vẫn được hoàn thành vào năm 1966. Lúc bấy giờ, chưa có ai nghiên cứu về ngành khoa học này ở đại học Cambridge. Người hướng dẫn của ông là Denis Sciama chứ không phải là người mà ông trông đợi là Fred Hoyle. Bảo vệ luận án tiến sỹ xong, ông làm nghiên cứu một thời gian cho viện Thiên văn học rồi chuyển đến khoa Toán học ứng dụng và Vật lý lý thuyết của Cambridge (năm 1977) và làm việc từ đó cho đến ngày nay.
Năm 1990, ông đã nhận một cô bé người Việt sinh năm 1980 là
Nguyễn Thị Thu Nhàn đang sống tại làng trẻ em SOS Hà Nội làm con nuôi, và ông đã sang Việt Nam năm 1997 để thăm cô

các nhà khoa học đã có những công trình nghiên cứu về vấn đề này:

Lý thuyết Vụ Nổ Lớn được đưa ra dựa trên cơ sở của các thành tựu của lý thuyết và thực nghiệm. Về mặt thực nghiệm, năm 1910, nhà khoa học Vesto Slipher và sau này là Carl Wilhelm Wirtz đã xác định rằng hầu hết các tinh vân hình xoáy ốc đang rời xa Trái Đất, nhưng họ không nhận ra ý nghĩa của việc này, họ cũng không nhận ra được là các tinh vân đó là các thiên hà ở ngoài Ngân Hà của chúng ra.
Cũng vào những năm 1910, lý thuyết tương đối rộng của Albert Einstein thừa nhận một vũ trụ không tĩnh tại. Vũ trụ được mô tả bằng một ten sơ metric là một vũ trụ đang giãn nở hoặc đang co lại. Nhưng bản thân Einstein lại cho rằng một vũ trụ như thế là sai và ông đã bổ sung một hằng số vũ trụ, có tác dụng như một lực hút để có thể mô tả một vũ trụ tĩnh tại. Người đầu tiên nghiên cứu thuyết tương đối rộng một cách nghiêm túc mà không cần đến hằng số vũ trụ là Alexander Friedmann, và ông đưa ra các phương trình mô tả cho vũ trụ Friedmann-Lemaître-Robertson-Walker.
Năm 1927, một thầy tu dòng tên người Bỉ là Georges Lemaître cũng đưa ra các phương trình Friedmann-Lemaître-Robertson-Walker (Alexander Alexandrovich Friedman, Monsignor Georges Henri Joseph Édouard Lemaître, Howard Percy Robertson, Arthur Geoffrey Walker) một cách độc lập dựa trên các quan sát về sự lùi xa của các tinh vân hình xoáy ốc, và giả thiết rằng vũ trụ bắt đầu từ một "vụ nổ" của một "nguyên tử nguyên thủy" mà sau này gọi là "Vụ Nổ Lớn".
Ánh sáng vàng chuyển thành đỏ: các thiên thể đang dời xa người quan sát
Năm 1929, Edwin Hubble đã đưa ra các cơ sở thực nghiệm cho lý thuyết của Lemaître. Hubble chứng minh rằng, các tinh vân hình xoáy ốc là các thiên hà và ông đo khoảng cách giữa chúng bằng các ngôi sao Cepheid. Ông phát hiện ra rằng các thiên hà đang rời ra xa chúng ta theo tất cả các hướng với vận tốc tỷ lệ với khoảng cách giữa chúng. Sự giãn nở này được gọi là định luật Hubble.
Do sự giới hạn của nguyên lý vũ trụ, định luật Hubble gợi ý rằng vũ trụ đang giãn nở. Điều này cho phép hai khả năng trái ngược nhau có thể xảy ra. Khả năng thứ nhất là lý thuyết về vụ nổ lớn của Lemaître, và sau đó được George Gamow mở rộng là đúng. Khả năng thứ hai là vũ trụ tuân theo mô hình trạng thái dừng của Fred Hoyle, trong đó, vật chất được tạo ra khi các thiên hà chuyển động ra xa khỏi nhau. Theo mô hình của Hoyle, vũ trụ gần như không đổi theo thời gian. Thực ra chính Hoyle là người đã đặt tên cho lý thuyết của Lemaître một cách mỉa mai trên một chương trình của đài BBC vào năm 1949 là "vụ nổ lớn", đến năm 1950 cái tên trên mới được in ở trên các bài báo.
Trong rất nhiều năm, ý tưởng này vẫn gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng thực nghiệm ủng hộ ý tưởng cho rằng vũ trụ bắt đầu từ một trạng thái đặc nóng. Từ khám phá bức xạ phông vi sóng vũ trụ vào năm 1965 thì lý thuyết vụ nổ lớn được coi là lý thuyết tốt nhất để mô tả nguồn gốc và tiến hóa của vũ trụ.
Trước những năm cuối của thập kỷ 1960, rất nhiều nhà vũ trụ học nghĩ rằng điểm kỳ dị có mật độ vô hạn tại thời điểm bắt đầu của thời gian trong mô hình vũ trụ của Friedmann có thể không đúng nếu trước đó, vũ trụ ở pha co lại nhưng khi đến gần các thiên hà trượt qua nhau và chuyển sang pha giãn nở như hiện nay. Richard Tolman gọi vũ trụ như thê này là vũ trụ dao động. Tuy nhiên, vào những năm 1960, Stephen Hawking và những người khác chứng minh rằng vũ trụ như thế không thể tồn tại và điểm kỳ dị là một đặc điểm quan trọng nhất của vật lý được mô tả bằng lý thuyết hấp dẫn của Einstein. Điều này thuyết phục phần lớn các nhà vũ trụ học chấp nhận vũ trụ được mô tả bằng thuyết tương đối rộng được sinh ra tại một thời điểm hữu hạn trong quá khứ. Tuy nhiên, vì thuyết hấp dẫn lượng tử chưa hoàn thiện nên không có cách nào kiểm chứng điểm kỳ dị tại Vụ nổ lớn là một điểm khởi đầu cho vũ trụ và cũng không thể nào nói rằng vũ trụ có tuổi vô hạn.
Ngày nay, tất cả các công trình lý thuyết về vũ trụ học đều là phần mở rộng hoặc hiệu chỉnh lại lý thuyết Vụ nổ lớn ban đầu. Rất nhiều các công trình hiện nay về vũ trụ học bao gồm việc nghiên cứu sự hình thành của các thiên hà trong bối cảnh sau Vụ nổ lớn, tìm hiểu cái gì đã xảy ra tại Vụ nổ lớn và so sánh các kết quả thực nghiệm với lý thuyết.
Việc nghiên cứu về Vụ nổ lớn có những bước tiến bộ vượt bậc vào những năm 1990 và những đầu năm của thế kỷ 21 nhờ vào sự phát triển của kỹ thuật kính thiên văn kết hợp với một lượng lớn các dự liệu vệ tinh như Máy thăm dò phông vũ trụ (COBE), kính thiên văn không gian Hubble và Máy dò dị hướng vi sóng Wilkinson (WMAP). Các dữ liệu này cho phép các nhà vũ trụ học tính toán rất nhiều thông số về Vụ nổ lớn với độ chính xác cao và cho ra khám phá bất ngờ là sự giãn nở của vũ trụ không phải là đều mà đang được gia tốc

Lược sử thuyết vụ nổ

Vụ Nổ Lớn là một lý thuyết khoa học về nguồn gốc của vũ trụ. Lý thuyết đó phát biểu rằng vũ trụ được bắt đầu từ một điểm kỳ dịmật độ vật chấtnhiệt độ lớn vô hạn tại một thời điểm hữu hạn trong quá khứ. Từ đó, không gian đã mở rộng cùng với thời gian và làm cho các thiên hà di chuyển xa nhau hơn, tạo ra một vũ trụ giãn nở như chúng ta thấy ngày nay.Ý tưởng trung tâm của lý thuyết này là quá trình vũ trụ đang giãn nở. Nó được minh chứng bằng các thí nghiệm về dịch chuyển đỏ của các thiên hà (định luật Hubble). Điều đó có nghĩa là các thiên hà đang rời xa nhau và cũng có nghĩa là chúng đã từng ở rất gần nhau trong quá khứ và quá khứ xa xưa nhất, cách đây khoảng 13,7 tỷ (13,7 × 109) năm, là một điểm kỳ dị. Từ "vụ nổ lớn" được sử dụng trong một nghĩa hẹp, đó là một thời điểm trong thời gian khi sự mở rộng của vũ trụ bắt đầu xuất hiện, và theo nghĩa rộng, đó là quá trình tiến hóa, giải thích nguồn gốcsự phát triển của vũ trụ
Cơ sở lí thuyết:
Lý thuyết Vụ Nổ Lớn ngày nay dựa trên ba giả thuyết sau:Tính phổ quát của các định luật vật lýNguyên lý vũ trụ họcNguyên lý CopernicBan đầu, các giải thuyết trên chỉ được thừa nhận nhưng ngày nay có rất nhiều thực nghiệm kiểm tra tính đúng đắn của chúng. Tính phổ quát của các định luật vật lý được chứng minh là đúng đắn vì các sai số lớn nhất về hằng số cấu trúc tinh tế trong một khoảng thời gian bằng tuổi của vũ trụ chỉ cỡ khoảng 10-5. Tính dị hướng của vũ trụ xác định nguyên lý vũ trụ và được kiểm nghiệm với độ chính xác 10-5 và vũ trụ được xác định là đồng nhất trên quy mô lớn với độ sai số khoảng 10%. Hiện nay người ta vẫn đang trong quá trình kiểm tra nguyên lý Copernic bằng cách nghiên cứu tương tác giữa các đám thiên hà bằng CMB thông qua hiệu ứng Sunyaev-Zeldovich với độ chính xác 1%.Lý thuyết Vụ Nổ Lớn sử dụng giả thuyết Weyl để đo thời gian tại bất kỳ thời điểm nào sau kỷ nguyên Planck. Các phép đo này dựa trên các tọa độ quy chiếu trong đó khoảng cách quy chiếuthời gian quy chiếu đã loại bỏ sự giãn nở của vũ trụ trên quan điểm của các phép đo không-thời gian. Khoảng cách quy chiếu và thời gian quy chiếu được định nghĩa sao cho các vật thể chuyển động trong các vũ trụ giãn nở khác nhau có cùng một khoảng cách và các chân trời hạt hay các giới hạn quan sát (của một vũ trụ nào đó) được xác định bởi thời gian quy chiếu.Vì vũ trụ có thể được mô tả bởi các tọa độ như vậy, vụ nổ lớn không phải là một vụ nổ trong đó vật chất được phóng ra và lấp đầy một vũ trụ trống rỗng; cái đang giãn nở chính là không-thời gian. Đó chính là sự giãn nở làm cho khoảng cách vật lý giữa hai điểm cố định trong vũ trụ của chúng ta tăng lên. Các vật thể liên kết với nhau (ví dụ bị liên kết bởi lực hấp dẫn) thì không giãn nở cùng không-thời gian vì các định luật vật lý điều khiển chúng được giả thiết là đồng nhất và độc lập với các giãn nở metric. Hơn nữa, sự giãn nở của vũ trụ tại nấc thang cục bộ ngày nay quá nhỏ nên nếu có sự phụ thuộc nào của các định luật vật lý vào sự giãn nở thì sự phụ thuộc đó cũng rất nhỏ làm cho các máy đo không thể xác định được.

Thuyết Big bang :


Cho đến đầu thế kỷ 20, bằng chứng thực tiễn duy nhất về nguồn gốc vũ trụ là bầu trời ban đêm tối đen. Nghịch lý Olbers (1823) cho rằng nếu vũ trụ vô tận trong không-thời gian thì nó phải có nhiều sao đến mức khi nhìn lên bầu trời, tia mắt ta bao giờ cũng gặp một ngôi sao. Và ta sẽ thấy bầu trời luôn sáng rực như mặt trời, ngay cả vào ban đêm. Nhưng thực tế bầu trời ban đêm lại tối đen. Thật thú vị là trong bài thơ văn xuôi dài Eureka năm 1848, Edgar Poe cho rằng, đó là do các ngôi sao không đủ thời gian để chiếu sáng toàn vũ trụ. Vậy bầu trời đêm tối đen chứng tỏ vũ trụ không tồn tại mãi mãi. Không chỉ đứng vững trước thử thách của thời gian mà giả thuyết còn đóng vài trò quyết định trong việc hình thành lý thuyết Big Bang.

Sự tích Ngưu lang Chúc nử

Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng Thượng đế, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bễ việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông.
Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên ra ơn cho hai người mỗi năm được gặp nhau một lần vào đêm mùng 7 tháng Bảy
âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu.
Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Vì mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai, họ cãi nhau chí chóe nên đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong. Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm
quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh. Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông.
Có dị bản khác cho rằng tên gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước (chim Khách) kết cánh tạo ra

Thiên Hà và dải Ngân Hà khác nhau như thế nào?

Thiên Hà là thiên hà có chứa Hệ Mặt Trời. Còn Dãi Ngân Hà là hình ảnh Thiên Hà trên bầu trời.
Dải Ngân Hà là thiên hàHệ Mặt Trời nằm trong đó. Trong văn học nó còn có tên gọi là sông Ngân. Nó xuất hiện trên bầu trời như một dải sáng trắng kéo dài từ chòm sao Tiên Hậu về phía bắc và chòm sao Nam Thập Tự về phía nam. Dải Ngân Hà sáng hơn về phía chòm sao Nhân Mã là chỗ trung tâm của dải Ngân Hà. Một dữ kiện thực tế là dải Ngân Hà chia bầu trời thành hai phần xấp xỉ bằng nhau chứng tỏ Hệ Mặt Trời nằm rất gần với mặt phẳng của thiên hà này. Từ Ngân Hà có nguồn gốc từ tiếng Trung Hoa, và cũng được sử dụng tại Nhật Bảnbán đảo Triều Tiên.Cấu trúc :Dải Ngân Hà là một thiên hà xoắn ốc có thanh ngang kiểu SBbc theo phân loại Hubble (dạng thiên hà hình đĩa có các nhánh liên kết không chặt chẽ và có phần gần trung tâm lồi hẳn lên) có khối lượng xấp xỉ 1012 khối lượng của Mặt Trời (M☉), có khoảng 200-400 tỷ ngôi sao (định tinh). Dải Ngân Hà có đường kính khoảng 100.000 năm ánh sáng. Khoảng cách từ Mặt Trời đến trung tâm dải Ngân Hà khoảng 27.700 năm ánh sáng

Vì sao có THIÊN HÀ viết hoa và thiên hà viết thường?

Cụm thiên hà gồm vài chục thiên hà liên kết với nhau bằng hấp dẫn. Kích thước của chúng từ 6 - 13 triệu năm ánh sáng và khối lượng 1000 - 10000 tỉ lần khối lượng Mặt Trời. +Quần thiên hà (cluster of galaxy) là một tập hợp rất dầy đặc gồm vài nghìn thiên hà liên kết với nhau. Nói đơn giản nó là một qui mô lớn hơn rất nhiều của cụm thiên hà. Kích thước của chúng từ 5 đến 60 triệu năm ánh sáng, khối lượng khoảng 1013 khối lượng Mặt Trời. Có hai loại quần chủ yếu là định hình và không định hình. Loại định hình có tâm và cí sự đối xứng cầu gồm chủ yếu các thiên hà elip và thấu kính. Loại không định hình không có tâm và đối xứng cầu, thường có kích thước nhỏ hơn loại kia.
+ Siêu quần thiên hà là tập hợp lớpn gồm nhiều cụm thiên hà, quần thiên hà và một vài thiên hà biệt lập. Siêu quần thiên hà thường có hình dẹt hoặc dài , thành chuỗi liên tiếp nhau, kích thước khoảng 300 - 500 triệu năm ánh sáng và khối lượng khoảng 1018 khối lượng Mặt Trời
* Cụm thiên hà địa phương: Thiên hà Milkyway của chúng ta cùng khoảng 30 thiên hà khác lân cận tập hợp thành "cụm thiên hà địa phương" (Local Group). Cụm địa phương này có hình một elipxoit, đường kính 7 - 10 triệu năm ánh sáng. Trong số các thiên hà thuộc cụm địa phương của chúng ta thì thiên hà Milkyway là thiên hà lớn thứ hai, Thiên Hà của chúng ta có đường kính khoảng 100.000 năm ánh sáng với khoảng 200 tỷ ngôi sao - 200 tỷ mặt trời và Mặt Trời của chúng ta chỉlà một ngôi sao nhỏ nằm tại một nhánh cách tâm thiên hà 27.000 năm ánh sáng. Lớn nhất là thiên hà tinh vân M31 tức tinh vân tiên nữ (Andromeda). Đây là thiên thể xa nhất có thể nhìn thấy bắng mắt thường, M31 có 4 thiên hà lùn làm vệ tinh cho nó. Tiếp theo , lớn thứ 3 là thiên hà M33 (NGC 598). Các thiên hà còn lại hầu hết là thiên hà lùn bao quanh Milkyway và M31, M33.Gần chúng ta nhất là 2 thiên hà không định hình gọi tên là 2 đám mây Magellan lớn và nhỏ. 2 thiên hà này được phát hiện bởi 1 thành viên trong đoàn thám hiểm của Magellan và thế là tự nhiên ngài Magellan được có tên trên 2 thiên hà.
Danh mục đầu tiên về các tinh vân có kèm số liệu đầy đủ được đưa ra bởi Charles Messier vào năm 1781, danh sách này gồm 110 tinh vân được đánh số theo thứ tự từ M1 - M110 (M=Messier), sau này, người ta xác định được rất nhiều trong số này không phải các tinh vân mà chính là các thiên hà, và một phát hiện nữa là M101 và M102 thực chất là 1. Tuy nhiên danh mục Messier vẫn được giữ nguyên giá trị sử dụng và ngày nay vẫn được áp dụng khá phổ biến. Tuy nhiên hiện tại, một danh mục mới được ra đời, danh mục này được bao gồm cả các tinh vân và thiên hà nói chung, trong đó ngoài các tinh vân - thiên hà đã có trong danh mục Messier còn có hàng nghìn tinh vân, thiên hà khác đến nay đã được xác định. Hiện nay danh mục này được sử dụng rộng rãi hơn và kí hiệu của các thiên hà, tinh vân trong đó được sử dụng như tên chính thức của thiên hà, tinh vân, được gọi là danh mục NGC (New General Catalogue).

Thiên hà là gì?




Thiên hà (galaxy) là một tập hợp các thiên thể trong một phạm vi nhất định. Chúng liên kết lại với nhau do hấp dẫn lẫn nhau. Sự liên kết này tạo thành các xoáy trong đó các ngôi sao và các hành tinh của chúng đều quay quanh một tâm chung.Thiên hà có thể chứa từ 106 đến 1012 sao và bán kính từ 1000 đến 200000 năm ánh sáng. Khối lượng của chúng có thể từ 500000 đến vài nghìn tỷ lần khối lượng Mặt Trời. Thành phần của một thiên hà ngoài các ngôi sao và các hành tinh của chúng còn vô số các thiên thạch nhỏ, các khối khí và bụi rải rác. Tất cả các thành phần này đều quay quanh một tâm chung chính là tâm của thiên hà.


Sao . Có những loại sao nào? sao tiến hóa như thế nào/

Một ngôi sao là một thiên thể chứa chủ yếu vật chất ở trạng thái plasma, khối lượng khoảng từ 1029 đến 1040 kg, duy trì ở nhiệt độ hàng nghìn độ K, do đó tỏa ra bức xạ vật đen tương ứng có cực đại trong phổ nhìn thấy đến UV gần, nhờ các phản ứng nhiệt hạch trong lòng. Các ngôi sao thường có hình dạng gần hình cầu, tự duy trì trạng thái cân bằng thủy động lực học, nhờ sự cân bằng giữa áp suất bức xạ điện từ phát ra từ bên trong với trường hấp dẫn của bản thân.
Các sao thường là trung tâm của một hệ hành tinh, trong đó các hành tinh và các thiên thể khác (như sao chổi, khí và bụi, ...) chịu ảnh hưởng lực hấp dẫn của sao trung tâm và bay quanh sao trung tâm. Mặt Trời là ngôi sao gần chúng ta nhất và là ngôi sao trung tâm của Hệ Mặt Trời.
Có những hệ gồm hai sao bay xung quanh nhau, tạo thành sao đôi. Các sao đôi thường không có hành tinh bay quanh, do hệ như vậy không cân bằng bền. Cũng lý do này, các hệ gồm 3 sao thường có một sao đôi, hai sao bay sát nhau, và một sao đơn nằm xa. Các nhóm gồm nhiều sao có mối liên kết hấp dẫn với nhau cũng thường chứa các sao đôi và sao đơn bên trong. Ở khoảng cách lớn hơn, các sao tụ tập, cùng với các dạng thiên thể khác, thành các thiên hà.
Môn học nghiên cứu các ngôi sao là thiên văn sao.

Vì sao gọi sao chổi Haley?

Nó là sao chổi nổi tiếng nhất trong các sao chổi theo chu kỳ. Dù trong mỗi thế kỷ đều có nhiều sao chổi có chu kỳ dài xuất hiện với độ sáng và ngoạn mục hơn nhưng sao chổi Halley là một ngôi sao chổi chu kỳ ngắn có thể thấy rõ bằng mắt thường và do đó, là sao chổi có thể nhìn thấy bằng mắt thường chắc chắn có thể trở lại trong một đời người Sao chổi Halley xuất hiện lần cuối bên trong Hệ Mặt Trời vào năm 1986, và sẽ xuất hiện trở lại vào giữa năm.Quỹ đạo bay va chu ki` của sao: Cũng như Trái đất, sao chổi Halley cũng chuyển động trên một quỹ đạo quanh Mặt trời. Điểm khác biệt là quỹ đạo của Trái đất là hình elip gần tròn, còn quỹ đạo của sao chổi Halley là hình elip dẹt. Điểm mà sao chổi Halley gần Mặt trời nhất (điểm cận nhật) cách Mặt trời 90 triệu kilomét, qua giữa quỹ đạo sao Thuỷ và sao Kim, điểm xa Mặt trời nhất (điểm viễn nhật) cách xa Mặt trời 5 tỷ 295 triệu kilomét, so với khoảng cách giữa quỹ đạo của sao Hải vương tinh là hành tinh xa Mặt trời (là 4,5 tỷ kilomét) thì còn xa hơn.Chu kỳ chuyển động của sao chổi Halley quanh Mặt trời là 76 năm. Khi bay xa Mặt trời đến gần điểm viễn nhật sao chổi bay với tốc độ 0.91 km/s tức 3280 m/s. Nếu so với vận tốc âm thanh trên mặt Trái đất là 340 m/s thì tốc độ của thiên thể này gấp 2,7 lần tức là tương đương với tốc độ máy bay siêu thanh cấp 2,7.Khi sao chổi Halley từ điểm viễn nhật bay trở về, thì khi càng bay gần đến Mặt trời, tốc độ bay của nó càng nhanh. Khi đến gần điểm cận nhật, gần quỹ đạo của sao Kim, tốc độ chuyển động sẽ là 54,3 km/s tức cũng là 195.500 km/giờ.Với Trái đất tốc độ tại điểm cận nhật và điểm viễn nhật sai khác nhau không nhiều. Vào ngày 04/01 là điểm cận nhật thì tốc độ là 35,6 km/s, còn ngày 04/07 là điểm viễn nhật thì tốc độ sẽ là 34,79 km/s.

Sao Chổi có cấu tạo và quĩ đạo chuyển động như thế nào


Sao chổi là những khối băng và bụi đường kính khoảng vài kilômét km. Chúng bay quanh Mặt trời theo những quỷ đạo hình ê-líp. Điều đó có nghĩa là phần lớn thời gian chúng ở cách rất xa Mặt trời, nơi rất lạnh và khiến khối băng của nó không bị tan ra. Khi chúng bay tới gần Mặt trời, khối băng nóng lên và biến thành khí. Cái "đuôi" vĩ đại của nó xuất hiện, do khí và bụi của sao chổi tạo nên. Đuôi của sao chổi có thể dài hàng triệu kilômét km, nhung "cái chổi" vĩ đại chói lòa đó chẳng qua chỉ có một dúm bụi mà thôi!
Ánh sáng và các hạt từ Mặt trời đập vào đuôi sao chổi làm nó luôn văng ra xa, ngược với hướng của Mặt trời. Bạn cũng có thể nhìn thấy một sao chổi nhưng lại có nhiều cái đuôi - một số có cấu tạo là bụi, số khác mờ hơn là những đuôi bằng chất khí. Chúng ta có thể nhìn thấy những cái đuôi bởi bụi phản chiếu ánh sáng Mặt trời, giống như những hạt bụi trong phòng bạn lòe lên khi có một tia nắng chiếu vào.

*Quỹ đạo chuyển động
Theo quỹ đạo, sao chổi được phân chia thành các loại: sao chổi ngắn hạn có chu kỳ quỹ đạo ít hơn 200 năm, sao chổi dài hạn có chu kỳ quỹ đạo lớn hơn, nhưng vẫn quay trở lại, và sao chổi thoáng qua có quỹ đạo parabol hay hyperbol chỉ bay ngang qua Mặt Trời một lần và sẽ ra đi mãi mãi sau đó. Ví dụ về sao chổi ngắn hạn, có sao chổi Encke có quỹ đạo nhỏ bé, không bao giờ ra xa Mặt Trời hơn Sao Mộc.Như mọi thiên thể chuyển động trên quỹ đạo dưới tác dụng của lực hấp dẫn, các sao chổi chuyển động nhanh nhất tại cận điểm quỹ đạo và chậm nhất tại viễn điểm quỹ đạo.Do các sao chổi có khối lượng nhỏ, khi chúng bay ngang qua các hành tinh lớn, quỹ đạo của chúng dễ bị nhiễu loạn. Với các sao chổi ngắn hạn, kết quả của sự nhiễu loạn này, về lâu dài, khiến cho viễn điểm quỹ đạo của chúng trùng với bán kính quỹ đạo của các hành tinh lớn, trong đó nhóm sao chổi nằm gần Sao Mộc có số lượng lớn nhất, như thể hiện biểu đồ tần xuất. Sao Mộc là nguồn gây nhiễu loạn mạnh nhất, vì khối lượng của nó lớn gấp đôi khối lượng tổng cộng của các hành tinh khác, và nó chuyển động nhanh hơn các hành tinh lớn khác. Các sao chổi dài hạn cũng thường xuyên bị nhiễu loạn khi đi ngang qua các hành tinh lớn.Các tương tác hấp dẫn này khiến cho việc tính toán dự đoán quỹ đạo của nhiều sao chổi trở nên khó khăn. Nhiều sao chổi được quan sát từ nhiều thập kỷ trước đã bị mất tích, vì quỹ đạo của chúng đã thay đổi và người ta không dự đoán được vị trí quay trở lại của chúng để theo dõi. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, một sao chổi "mới" được khám phá để rồi, sau khi tính toán quỹ đạo, được phát hiện ra là một sao chổi "đã mất tích". Ví dụ như sao chổi 11P/Tempel-Swift-LINEAR, đã được quan sát năm 1869 sau đó không nhìn thấy nữa từ năm 1908 do nhiễu loạn của Sao Mộc, rồi bỗng được tìm thấy một cách tình cờ bởi LINEAR vào năm 2001.

Thiên thạch là gì?


Thiên thạch trong tiếng Việt hiện nay được dùng không thống nhất, để chỉ nhiều loại thiên thể với các bản chất hoàn toàn khác nhau.
Thiên thạch là một vật thể tự nhiên từ ngoài không gian và tác động đến bề mặt Trái đất. Còn trong khi ở trong không gian thì nó được gọi là vân thạch. Khi thiên thạch từ trong không gian vào đến bầu khí quyển của Trái đất thì áp suất ánh sáng làm thiên thạch nóng lên và phát ra ánh sáng và xuất hiện cái đuôi thiên thạch hướng từ phía Trái đất đi ra.
Thường thì khi thiên thạch di chuyển với vấn tốc nhanh và khi va vào bề mặt của một hành tinh hay tiểu hành tinh thì nó để lại trên bề mặt của hành tinh đó những mảnh vỡ hay những dấu vết về sự va chạm. Chúng ta có thể thấy rõ những ảnh chụp từ trong không gian của NASA về những vết rỗ trên Mặt trăng vì ở đây không có gió hay trên Hỏa tinh (Sao Hỏa).
Trên thế giới đã tìm thấy rất nhiều những nơi mà dấu vế về vụ va chạm thiên thạch để lại. Tính đến giữa năm 2006, trên thế giới đã có khoảng 1050 mẫu thiên thạch từ những vụ va chạm và có khoảng 31000 tài liệu ghi chép về thiên thạch.
Một số từ điển tiếng Việt (từ điển giải nghĩa) đã định nghĩa khác nhau về thiên thạch là vẫn thạch[1] (tiếng Anh: meteorite), đôi khi còn viết là vân thạch. Nhiều tài liệu dùng từ "thiên thạch" để chỉ tiểu hành tinh (tiếng Anh:asteroid)
Một số từ điển Anh Việt dịch chung lẫn nhau giữa vẫn thạch, vân thạch, thiên thạch cho từ meteoroid, meteor, meteoroid ,

Vân tinh là gì? Vì sao Sao Hỏa gọi là hành tinh đỏ?

Trong Ngân Hà và các thiên hà có rất nhiều những vệt mờ mờ như sương mù đủ màu sắc. Đó là những đám mây bụi và khí khổng lồ, gọi là tinh vân. Các tinh vân thường tập trung thành những giải hẹp, dày từ 400-900 năm ánh sáng (1 nas = 9.460 tỷ km), nằm dọc theo mặt phẳng của Ngân Hà.
Sao Hỏa hay Hỏa Tinh (tiếng Anh: Mars) thật ra không phải là một ngôi sao mà là hành tinh thứ tư gần Mặt Trời trong Hệ Mặt Trời cũng là hành tinh thứ nhất có quỹ đạo nằm ở ngoài quỹ đạo của Trái Đất. Sao Hỏa giống Trái Đất về nhiều điểm: bốn mùa, hai cực có băng đá, một bầu khí quyểnmây, gió, bão cát, một ngày dài độ 24 giờ,... Vì sự có mặt của một khí quyển tương đối dầy nên nhiều người tin là có thể có sự sống ở đây. Vì sự hiện diện của nhiều lòng sông khô nên nhiều nhà khoa học chắc chắn rằng trong quá khứ đã có một thời nước chảy trên bề mặt của Sao Hỏa. Sao Hỏa có hai vệ tinh tự nhiênDeimosPhobos.Tên tiếng Việt của hành tinh này được rập khuôn theo tên do Trung Quốc đặt, dựa vào nguyên tố hỏa của Ngũ Hành; chữ Nho viết là 火星. Vì Sao Hỏa phản chiếu ánh sáng mầu đỏ, các văn hóa Tây phương dùng tên Mars của vị thần chiến tranh trong thần thoại La Mã để đặt tên cho hành tinh này; trong thần thoại Hy Lạp tên của vị thần này là Ares (Άρης). Ngoài ra Sao Hỏa cũng được nghiên cứu bởi nhiều nền văn hóa cổ khác như Trung Hoa, Ấn Độ, Ai Cập, Ả Rập...

Sao Mai và sao Hôm là hai sao hay một sao? thực chất hai sao này là thế nào?


Sao Mai và sao Hôm là một sao.Sao Kim, còn gọi là Kim Tinh, Sao Hôm, Sao Mai (tên tiếng Anh: Venus) thật ra không phải là một ngôi sao, mà là hành tinh gần Mặt Trời thứ nhì của Thái Dương Hệ và là loại hành tinh có đất và đá giống như Trái Đất (terrestrial planet). Kích thước, khối lượng và trọng lực của Sao Kim suýt soát với Trái Đất nên hai hành tinh này vẫn thường được coi như hai hành tinh sinh đôi. Ngoại trừ các điểm đó, Trái Đất và Sao Kim, trên thực tế, khác hẳn nhau: một nơi có khí hậu ôn hoà, nơi kia cực kỳ nóng; áp suất khí quyển ở một nơi thì vừa phải, áp suất nơi kia cực cao đủ để bóp bẹp một chiếc xe bọc sắt; không khí một nơi có nhiều hơi nước, dưỡng khí và thuận lợi cho sự sống, không khí nơi kia dầy đặc với chất độc, thán khí và các axít ăn thủng được kim loại. Với mắt trần Sao Kim là thiên thể sáng thứ ba trên bầu trời, sau Mặt Trời và Mặt Trăng. Cấp sao biểu kiến của Sao Kim biến đổi trong khoảng -4,6m đến -3,8m.
Tên tiếng Việt của sao Kim được rập khuôn theo tên do Trung Quốc đặt, dựa vào nguyên tố kim của Ngũ Hành; chữ Nho viết là 金星. Nhưng người Việt còn gọi là sao Hôm, khi hành tinh này mọc lên lúc hoàng hôn, và sao Mai, khi hành tinh này mọc lên lúc bình minh.Các văn hóa Tây phương dùng tên thần Venus (tiếng Việt là Vệ nữ), vị nữ thần của sắc đẹp và của tình yêu trong thần thoại La Mã, cho hành tinh này; trong thần thoại Hy Lạp tên của vị thần này là Aphrodite (Αφροδίτη). Sao Kim được các nền văn hóa thượng cổ để ý đến vì độ sáng của nó. Người Hy Lạp cổ đại tuy biết Sao Kim xuất hiện trên bầu trời cả ban ngày lẫn ban đêm nhưng, giống như người Việt, vẫn đặt tên riêng cho Sao Hôm là Hesperus và cho Sao Mai là Phosphorus. Trong thần thoại Trung Quốc, Thái Bạch Kim Tinh là tinh chủ của sao Kim (Kim Tinh). Các nền văn hóa cổ khác như Ai Cập, Babylon, Maya, Ả Rập, Trung Hoa, Ấn Độ ... không chỉ có tên riêng cho Sao Kim, và cả cho Sao Hôm và Sao Mai, mà còn có nhiều văn kiện quan trọng nghiên cứu về hành tinh này qua nhiều thế hệ.

Mặt trăng là gì? Con người đặt chân lên măt trăng khi nào?



Mặt Trăng (tiếng Latin: Luna, ký hiệu: ☾) là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất và là vệ tinh tự nhiên lớn thứ năm trong Hệ Mặt Trời.






Năm 1969, Neil ArmstrongBuzz Aldrin là những người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng trong chuyến bay Apollo 11. Việc thám hiểm Mặt Trăng của loài người đã ngừng lại với sự chấm dứt của chương trình Apollo, dù nhiều quốc gia đã thông báo các kế hoạch đưa người hay tàu vũ trụ robot tới Mặt Trăng.

Vệ tinh là gì?


Một vệ tinh là bất kỳ một vật thể nào quay quanh một vật thể khác (được coi là vật thể chính của nó). Mọi vật thể thuộc Hệ Mặt Trời, gồm cả Trái Đất, đều là vệ tinh của Mặt Trời, hay là vệ tinh của các vật thể đó.Và có thể coi mặt trăng là hành tinh của Trái Đất

Vì sao trái đất được gọi là hành tinh xanh?

Là hành tinh thứ 3 của hệ mặt trời,với kích thước vừa phải (đường kính 12.750km), Trái Đất chỉ lớn hơn sao Kim một ít, tỉ trọng chỉ hơn Sao Thuỷ một chút, còn cấu tạo bên trong và thành phần hoá học thì Trái Đất không khác nhóm các hành tinh bên trong là bao nhiêu, tuy tỉ lệ từng thành phần có khác với các hành tinh này.
Nhìn từ vũ trụ, Trái Đất hiện ra như 1 hành tinh xanh: màu xanh biển của các đại dương, màu trắng pha lơ các mây bao bọc bên ngoài và màu xanh lá cây chen lẫn màu nâu của các lục địa lúc ẩn lúc hiện bên dưới màn mây.
Là hành tinh thứ 3 của hệ mặt trời,với kích thước vừa phải (đường kính 12.750km), Trái Đất chỉ lớn hơn sao Kim một ít, tỉ trọng chỉ hơn Sao Thuỷ một chút, còn cấu tạo bên trong và thành phần hoá học thì Trái Đất không khác nhóm các hành tinh bên trong là bao nhiêu, tuy tỉ lệ từng thành phần có khác với các hành tinh này.
Nhìn từ vũ trụ, Trái Đất hiện ra như 1 hành tinh xanh: màu xanh biển của các đại dương, màu trắng pha lơ các mây bao bọc bên ngoài và màu xanh lá cây chen lẫn màu nâu của các lục địa lúc ẩn lúc hiện bên dưới màn mây.
Tại sao Trái Đất lại có sự sống khác hẳn với các hành tinh khác trong hệ Mặt trời?
Điểm thứ nhất là khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời là 150 triệu km. Đó là khoảng cách đủ để nước có thể tồn tại được ở thể lỏng,rất cần thiết cho sự sống. Khoảng cách này cũng là khoảng cách để nhiệt đến từ Mặt Trời ở mức độ thuận lợi cho các phản ứng hoá học tạo nên các hợp chất hữu cơ. Điểm thứ hai cần nói là khối lượng vừa phải của Trái Đất đủ để giữ lại một bầu khí quyển không quá đậm đặc đến mức nguy hại như ở sao Kim, nhưng cũng không quá loãng đến mức không giữ được nhiệt như ở sao hoả hay mặt trăng. Trong suốt quá trình phát triển, bầu khí quyển Trái đất luôn biến đổi chậm chạp, giảm dần lượng khí CO2, tăng dần khí oxi. Đầu tiên khí CO2, hơi nước và nitơ thoát ra từ các miệng núi lửa được giữ lại trong khí quyển. Sau đó các đại dương được hình thành từ sự nguội lạnh và ngưng kết của hơi nước trong khí quyển rơi xuống. Khi có đại dương, nước hấp thụ bớt khí CO2 trong khí quyển. Đến khi các sinh vật đầu tiên xuất hiện ở biển, trong đó có loài tảo lục, thì sự hấp thụ CO2 và thải khí Oxi vào trong không khí ngày càng tăng. Ngày nay, khí quyển chứa 78% nitơ, 21% oxi và 1% còn lại là CO2, Argon, metan, hơi nước và các khí khác.
Từ những sinh vật đầu tiên xuất hiện cho đến nay, quá trình oxi hoá bầu khí quyển Trái Đất đã diễn ra gần 3 tỉ năm. Mặc dù có 1 tỉ lệ rất thấp ở lớp không khí đậm đặc sát mặt đất, hơi nước (khoảng 0,1 – 3%), CO2 (0,03%), khí metan và ozon (vài phần triệu) lại có vai trò hết sức quan trọng đối với sự sống. Khí CO2 và hơi nước hấp thu năng lượng Mặt Trời, giữ lại các tia hồng ngoại, gây hiệu ứng nhà kính điều hoà nhiệt độ trên Trái Đất. Còn ozon, với nồng độ cao ở cách mặt đất 80 km, có vai trò hấp thụ các tia cực tím nguy hiểm với sự sống không cho xuống đến mặt đất. Khí quyển còn như một cỗ máy thiên nhiên sử dụng năng lượng Mặt trời phân phối điều hoà nước trên khắp hành tinh dưới hình thức mây mưa, điều hoà lượng CO2 và O2 trên Trái Đất.
Bầu khí quyển của Trái Đất có chiều dày vào khoảng hơn 800 km gồm nhiều tầng, có thể tích khoảng 270 triệu triệu km và nặng khoảng 53000 tỷ tấn. Từ mặt đất lên đến độ cao 20 km là tầng đối lưu có không khí đậm dặc nhất - là nơi diễn ra mọi hiện tượng khí tượng mây mưa sấm chớp, có nhiệt độ giảm dần theo độ cao. Từ độ cao 20 -50 km là tầng bình lưu có nhiệt độ tăng dần từ -60o C đến 0o C, là nơi các luồng không khí chuyển động theo chiều ngang với tốc độ cao và có lớp ozon ở trên cùng. Tầng giữa nằm từ 50 – 80 km là nơi các thiên thạch nhỏ va vào Trái Đất, cọ sát vào không khí và bị bốc cháy tan thành sao băng. Tầng nhiệt ở độ cao 80 - 450 km, có không khí rất loãng tồn tại dưới dạng ion điện nên còn gọi là tầng điện li, là nơi phản hồi các sóng vô tuyến trở lại mặt đất và cũng có 1 lớp ozon ngăn chặn các tia cực tím ở trên cao. Đây cũng là nơi diễn ra các hiện tượng cực quang, hiện tượng này chỉ thấy được ở vùng gần cực. Trên cùng là tầng ngoài nằm từ 450km đến khoảng 800 km, không khí loãng dần và hoà vào không gian giữa các hành tinh.
Các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy lượng ozon trong tầng thấp nhất củakhí quyển ngày càng nhiều trong khi đó hàm lượng ozon trong tầng bình lưu ngày càng giảm (đã giảm tới 6%, và đã bị lủng ở nam cực) từ 20 năm trở lại đây. Hậu quả của sự suy giảm này là các tia cực tím có thể xuyên qua khí quyển đến mặt đất ngày càng nhiều hơn và làm cho nhiệt độ trong tầng đối lưu và ngày càng nóng lên do hàm lượng ozon gần mặt đất ngày càng tăng.

Ngưòi phương đông gọi tên các hành tinh quan trọng trong Hệ Mặt Trời theo thuyết nào của triết học?

Người phương Đông gọi tên các hành tinh theo thuyết Ngũ hành Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Tên tiếng Việt được lấy rập từ tên Trung Quốc. Có lẽ chữ "sao" dịch từ chữ "tinh" chứ thực ra là hành tinh chứ không phải là sao. Ngôi sao thì lớn hơn hành tinh nhiều lần.
Phương Tây thì hay lấy tên các vị thần đặt cho các hành tinh theo đặc điểm.Mình xin trình bày theo cách dễ nhớ nhất:
Sao Thủy: Chu kì quay quanh Mặt trời nhỏ nhất (quay nhanh nhất) nên mang tên Mercury - vị thần truyền tin nhanh như gió.
Sao Kim (Sao Mai, Sao Hôm): đẹp nhất và sáng nhất nên mang tên Venus (Vệ nữ) - nữ thần tình yêu và sắc đẹp (tượng thần Vệ Nữ là tượng người ta đục hình bà này đấy).
Sao Hỏa: có màu đỏ làm người ta liên tưởng đến Thần chiến tranh Mars, vị thần hiếu chiến luôn để lại ngọn lửa đỏ tàn bạo mỗi nơi đi qua.
Sao Mộc: hành tinh lớn nhất trong Hệ mặt trời cộng với dáng dấp uy nghi nên người ta đặt tên là Jupiter (tên Hy Lạp là Zeus) - chúa tể của các vị thần.
Sao Thổ: lớn thứ nhì, mang tên thần Saturn - vị thần bị đứa con trai là Jupiter lật đổ khỏi ngai vị chúa tể. (Tạm cho là lớn nhì, sau Jupiter).
Sao Thiên vương: lớn thứ ba, mang tên Uranus (ông nội Jupiter)- vị thần bị con trai là Saturn (cha Jupiter) lật đổ.(Vậy lớn nhất là cháu - Jupiter, rồi tới cha - Saturn, rồi tới ông nội - Uranus)Sao Hải Vương: có màu xanh nước biển nên được đặt tên là Neptune - thần biển cả (dầu ăn Neptune có hình ổng), thần này là anh thần Jupiter.

Kể những tên thường gọi của các hành tinh đó theo người Hy lạp? Trong Hệ mặt trời hành tinh nào lớn nhất?

Hệ Mặt Trời được biết đến với 8 hành tinh tính từ trong (gần Mặt Trời nhất) ra gồm: Sao Thuỷ (Mercury), Sao Kim (Venus), Trái Đất (Earth), Sao Hoả (Mars), Sao Mộc (Jupiter), Sao Thổ (Saturn), Sao Thiên Vương (Uranus) và Sao Hải Vương (Neptune).



Trong Hệ Mặt Trời Hành tinh lớn nhất là:

Năng lượng của mặt trời sinh ra như thế nào?


Ánh sáng nói riêng, hay bức xạ điện từ nói chung, từ bề mặt của Mặt Trời được xem là nguồn năng lượng chính cho Trái Đất. Hằng số năng lượng mặt trời được tính bằng công suất của lượng bức xạ trực tiếp chiếu trên một đơn vị diện tích bề mặt Trái Đất; nó bằng khoảng 1370 Watt trên một mét vuông. Ánh sáng Mặt Trời bị hấp thụ một phần trên bầu khí quyển Trái Đất, nên một phần nhỏ hơn tới được bề mặt Trái Đất, gần 1000 Watt/m² năng lượng Mặt Trời tới Trái Đất trong điều kiện trời quang đãng. Năng lượng này có thể dùng vào các quá trình tự nhiên hay nhân tạo. Quá trình quang hợp trong cây sử dụng ánh sáng mặt trời và chuyển đổi CO2 thành ôxy và hợp chất hữu cơ, trong khi nguồn nhiệt trực tiếp là làm nóng các bình đun nước dùng năng lượng Mặt Trời, hay chuyển thành điện năng bằng các pin năng lượng Mặt Trời. Năng lượng dự trữ trong dầu mỏ được giả định rằng là nguồn năng lượng của Mặt Trời được chuyển đổi từ xa xưa trong quá trình quang hợp và phản ứng hóa sinh của sinh vật cổ.

Mặt trời có cấu tạo như thế nào, có mấy lớp , đó là những láp nào?

Mặt trời là ngôi sao ở trung tâm Hệ mặt trời. Trái đất và các thành viên khác (gồm các hành tinh, tiểu hành tinh, thiên thạch, sao chổi, và bụi) quay quanh Mặt trời. Chỉ riêng Mặt trời chiếm khoảng 99,86% khối lượng của Hệ mặt trời. Khoảng cách trung bình của Mặt trời từ Trái đất xấp xỉ 149,6 triệu kilômét (1 Đơn vị thiên văn (AU), và ánh sáng của nó vượt qua khoảng cách này trong 8 phút 19 giây. Khoảng cách này thay đổi trong một năm từ khoảng cách gần nhất 147,1 triệu kilômét (0,9833 AU) ở điểm cận nhật (khoảng ngày 3 tháng 1), tới xa nhất 152,1 triệu kilômét (1,017 AU) ở điểm viễn nhật (khoảng ngày 4 tháng 7). Năng lượng từ Mặt trời, dưới hình thức ánh sáng mặt trời, hỗ trợ cho hầu hết mọi hình thức sự sống trên Trái đất thông qua quang hợp,và điều khiển khí hậu cũng như thời tiết trên Trái Đất. Mặt trời gồm hydro (khoảng 74% khối lượng, hay 92% thể tích), heli (khoảng 24% khối lượng, 7% thể tích), và một lượng nhỏ các nguyên tố khác, gồm sắt, nickel, oxy, silicon, sulfur, magnesium, carbon, neon, calcium, và chromium.
Mặt trời có hạng quang phổ G2V. G2 có nghĩa nó có nhiệt độ bề mặt xấp xỉ 5.780 K (5.506,85 °C) khiến nó có màu trắng, và thường có màu vàng khi nhìn từ bề mặt Trái đất bởi sự tán xạ khí quyển. Chính sự tán xạ này của ánh sáng ở giới hạn cuối màu xanh của quang phổ khiến bầu trời có màu xanh. Quang phổ Mặt trời có chứa các đường ion hoá và kim loại trung tính cũng như các đường hydro rất yếu. V (số 5 La Mã) trong lớp quang phổ thể hiện rằng Mặt trời, như hầu hết các ngôi sao khác, là một ngôi sao thuộc dãy chính. Điều này có nghĩa nó tạo ra năng lượng bằng tổng hợp hạt nhân của hạt nhân hydro thành heli. Có hơn 100 triệu ngôi sao lớp G2 trong Ngân hà của chúng ta. Từng bị coi là một ngôi sao nhỏ và khá tầm thường, Mặt trời hiện được biết sáng hơn 85% các ngôi sao trong Ngân hà, đa số chúng là các sao lùn đỏ.
Quầng nóng của Mặt trời liên tục mở rộng trong không gian và tạo ra gió mặt trời, một dòng hạt với tốc độ gấp 5 lần âm thanh mở rộng nhật mãn (heliopause) tới khoảng cách xấp xỉ 100 AU. Bong bóng trong môi trường liên sao được hình thành bởi gió mặt trời, nhật quyển (heliosphere), là cấu trúc liên tục lớn nhất trong Hệ mặt trời.
Mặt trời hiện đang đi xuyên qua đám Mây Liên sao Địa phương (Local Interstellar Cloud) trong vùng Bóng Địa phương (Local Bubble) mật độ thấp của khí khuếch tán nhiệt độ cao, ở vành trong của Nhánh Orion của Ngân hà, giữa nhánh Perseus và nhánh Sagittarius của ngân hà. Trong 50 hệ sao gần nhất bên trong 17 năm ánh sáng từ Trái đất, Mặt trời xếp hạng 4 về khối lượng như một ngôi sao cấp bốn (M = +4.83)., dù có một số giá trị cấp hơi khác biệt đã được đưa ra, ví dụ 4.85[17] và 4.81.[18] Mặt trời quay quanh trung tâm của Ngân hà ở khoảng cách xấp xỉ 24,000–26,000 năm ánh sáng từ trung tâm ngân hà, nói chung di chuyển theo hướng chùm sao Cygnus và hoàn thành một vòng trong khoảng 225–250 triệu năm (một năm ngân hà). Tốc độ quỹ đạo của nó được cho khoảng 220 ± 20, km/s nhưng một ước tính mới đưa ra con số 251km/s}}.[19][20] Bởi Ngân hà của chúng ta đang di chuyển so với Màn bức xạ vi sóng vũ trụ (CMB) theo hướng chòm sao Hydra với tốc độ 550km/s, nên tốc độ chuyển động của nó so với
CMB là khoảng 370km/s theo hướng chòm sao Crater hay Leo.



Một hình vẽ thể hiện cấu trúc Mặt trời:
1. Lõi
2. Vùng bức xạ
3. Vùng đối lưu
4. Quyển sáng
5. Quyển sắc
6. Quầng
7. Vết đen mặt trời
8. Đốm
9. Chỗ lồi lên






Măt trời là sao hay hành tinh?


Mặt trời là ngôi sao ở trung tâm Hệ mặt trời. Trái đất và các thành viên khác (gồm các hành tinh, tiểu hành tinh, thiên thạch, sao chổi, và bụi) quay quanh Mặt trời. Chỉ riêng Mặt trời chiếm khoảng 99,86% khối lượng của Hệ mặt trời.[6] Khoảng cách trung bình của Mặt trời từ Trái đất xấp xỉ 149,6 triệu kilômét (1 Đơn vị thiên văn (AU), và ánh sáng của nó vượt qua khoảng cách này trong 8 phút 19 giây. Khoảng cách này thay đổi trong một năm từ khoảng cách gần nhất 147,1 triệu kilômét (0,9833 AU) ở điểm cận nhật (khoảng ngày 3 tháng 1), tới xa nhất 152,1 triệu kilômét (1,017 AU) ở điểm viễn nhật (khoảng ngày 4 tháng 7).[7] Năng lượng từ Mặt trời, dưới hình thức ánh sáng mặt trời, hỗ trợ cho hầu hết mọi hình thức sự sống trên Trái đất thông qua quang hợp,[8] và điều khiển khí hậu cũng như thời tiết trên Trái Đất. Mặt trời gồm hydro (khoảng 74% khối lượng, hay 92% thể tích), heli (khoảng 24% khối lượng, 7% thể tích), và một lượng nhỏ các nguyên tố khác, gồm sắt, nickel, oxy, silicon, sulfur, magnesium, carbon, neon, calcium, và chromium.[9]

Ngoài các hành tinh xung quanh HMT có những thiên thể nào?

Các hành tinh còn có các vật thể bay quanh chúng như các vệ tinh tự nhiên, các vòng đai của vài hành tinh (như vành đai Sao Thiên Vương, vành đai Sao Thổ, ...), các vệ tinh nhân tạo. Các tiểu hành tinh cũng có các vệ tinh của chúng.
Xen kẽ giữa các hành tinh có các thiên thạchbụi cùng các sao chổi. Ngoài ra còn có nhật quyển (heliosphere), cấu trúc lớn nhất trong Hệ Mặt Trời, được tạo thành từ ảnh hưởng của từ trường quay của Mặt Trời trên plasma, gọi là gió Mặt Trời, choán đầy không gian trong hệ Mặt Trời. Nó hình dạng hình cầu với giới hạn ngoài cũng chính là giới hạn của Hệ Mặt Trời.

Đặc diểm của hệ măt trời

Từ trong ra ngoài, Hệ Mặt Trời gồm
Mặt Trời
Các hành tinhThủy Tinh, Kim Tinh, Trái Đất, Hỏa Tinh, các tiểu hành tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh.
Ba hành tinh lùn là Ceres, Diêm Vương TinhEris (được chính thức xếp loại hành tinh lùn kể từ tháng 8 năm 2006).
Ngoài cùng là Vòng đai KuiperĐám Oort. Các hành tinh còn có các vật thể bay quanh chúng như các vệ tinh tự nhiên, các vòng đai của vài hành tinh (như vành đai Sao Thiên Vương, vành đai Sao Thổ, ...), các vệ tinh nhân tạo. Các tiểu hành tinh cũng có các vệ tinh của chúng.Xen kẽ giữa các hành tinh có các thiên thạchbụi cùng các sao chổi. Ngoài ra còn có nhật quyển (heliosphere), cấu trúc lớn nhất trong Hệ Mặt Trời, được tạo thành từ ảnh hưởng của từ trường quay của Mặt Trời trên plasma, gọi là gió Mặt Trời, choán đầy không gian trong hệ Mặt Trời. Nó hình dạng hình cầu với giới hạn ngoài cũng chính là giới hạn của Hệ Mặt Trời.

Hệ mặt trời có mấy hành tinh, đó là những hành tinh nào thứ tự sắp xếp ra sao?

Hệ Mặt Trời được biết đến với 8 hành tinh tính từ trong (gần Mặt Trời nhất) ra gồm: Sao Thuỷ (Mercury), Sao Kim (Venus), Trái Đất (Earth), Sao Hoả (Mars), Sao Mộc (Jupiter), Sao Thổ (Saturn), Sao Thiên Vương (Uranus) và Sao Hải Vương (Neptune).
Sao Thuỷ - Mercury
Hành tinh này được đặt tên tương ứng với từ Hermes trong tiếng Hy Lạp, tên gọi của vị thần truyền tin có đôi giầy có cánh có thể bay đi khắp mọi nơi nhanh hơn cả gió cuốn. Quả đúng như vậy, Sao Thuỷ là hành tinh gần Mặt Trời nhất và có chu kì năm (chu kì quay quanh Mặt Trời) nhỏ nhất trong số các hành tinh, khi quan sát từ Trái Đất, bạn sẽ thấy rõ nó hoàn thành một vòng quay quanh Mặt Trười nhanh như thế nào.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 0,39 AU (57,9 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 87,96 ngày (ngày Trái Đất)
- Chu kì tự quay : 58,7 ngày
- Khối lượng : 3,3 x 10­23 kg
- Đường kính: 4.878km
- Nhiệt độ bề mặt: đêm khoảng 100K còn ngày là khoảng 700K
- Số vệ tinh: không
Sao Kim – Venus
Mỗi năm sẽ có vài tháng bạn thấy Sao Mai mọc lên buổi sớm ở chân trời Đông và vài tháng khác lại thấy Sao Hôm lúc Mặt rời lặn ở chân trời Tây. Chúng rất đẹp và rất sáng, cả 2, thật ra đều là một hành tinh duy nhất – Sao Kim. Nó là thiên thể sáng nhất bầu trời đêm của chúng ta (không tính Mặt Trăng), vẻ đẹp của nó làm người thời xưa đặt tên nó là Venus, theo tiếng Hy Lạp là Aphrodite – nữ thần tình yêu và sắc đẹp.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 0,723 AU (108,2 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 224,68 ngày
- Chu kì tự quay: 243 ngày
- Khối lượng : 4,87x1024 kg
- Đường kính: 12.104 km
- Nhiệt độ bề mặt: 726K
- Số vệ tinh: không
Trái Đất – Earh
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 1 AU (149,6 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 365,26 ngày
- Chu kì tự quay: 24 giờ
- Khối lượng : 5,98x1024 kg
- Đường kính: 12.756km
- Nhiệt độ bề mặt: 260 – 310K
- Số vệ tinh: 1 - Mặt Trăng
Sao Hoả - Mars
Hành tinh có màu đỏ như lửa, trong khi người phương Đong gọi nó là “Hoả” thì ở phương Tây, nó được gắn cho cái tên Mars – tên của thần chiến tranh Ares trong thần thoại Hy Lạp - vị thần hiếu chiến mà mỗi nơi thần đi qua thì luôn để lại một màu đỏ của lửa và máu.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 1,524 AU (227,9 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 686,98 ngày
- Chu kì tự quay: 24,6 giờ
- Khối lượng : 6,42x1023 kg
- Đường kính: 6.787km
- Nhiệt độ bề mặt: 150 – 310K
- Số vệ tinh: 2 – Phobos và Deimos
Sao Mộc – Jupiter
Là hành tinh lớn nhất hệ Mặt Trời, Sao Mộc hoàn toàn xứng đáng với cái tên Jupiter, mà theo tiếng Hy Lạp là Zeus – chúa tể của các vị thần. Sao Mộc cũng là hành tinh có nhiều vệ tinh nhất cũng như nhiều hiện tượng được quan tâm trong số 8 hành tinh của Hệ Mặt Trời.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 5,203 AU (778,3 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 29,456 năm
- Chu kì tự quay: 9,84 giờ
- Khối lượng : 1,9x1027 kg
- Đường kính: 142.796km
- Nhiệt độ bề mặt: 120K (nhiệt độ lớp khí bề mặt)
- Số vệ tinh: 63 vệ tinh đã được đặt tên và nhiều vật thể nhỏ chuyển động xung quanh.
Sao Thổ - Saturn
Nhiều người coi đây là hành tinh đẹp nhất trong số 7 hành tinh của Hệ Mặt Trời (không tính Trái Đất) do cái vành đai (Saturn’s ring) tuyệt đẹp của nó. Sao Thổ được đặt tên là Saturn, theo tiếng Hy Lạp là Cronus – cha của thần Zeus, người bị thần Zeus lật đổ khỏi vị trí cai quản các vị thần.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 9,536 AU (1.427 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 29,45 năm
- Chu kì tự quay: 10,2 giờ
- Khối lượng : 5,69x1026 kg
- Đường kính: 120.660km
- Nhiệt độ bề mặt: 88K
- Số vệ tinh: 56 vệ tinh đã đặt tên và rất nhiều thiên thạch lớn nhỏ trong vành đai quay quanh.
Sao Thiên Vương – Uranus
Hành tinh này được phát hiện ra vào ngày 13/3/1781 bởi nhà thiên văn William Herschel. Nó được đặt tên theo tên của Uranus - thần bầu trời, cha của Cronus, tức là ông nội của thần Zeus, người từng bị Cronus giết chết để cướp ngôi.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 19,18 AU (2.871 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 84,07 năm
- Chu kì tự quay: 17,9 giờ
- Khối lượng : 8,68x1025 kg
- Đường kính: 51.118km
- Nhiệt độ bề mặt: 59K
- Số vệ tinh: 27
Sao Hải Vương – Neptune
Được phát hiện ngày 23 tháng 9 năm 1846, hành tinh này được đặt tên là Neptune do nó có màu xanh như nước biển. Neptune theo tiếng Hy Lạp là Poseidon – anh trai của thần Zeus, vị thần cai quản tất cả các đại dương trên thế giới.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 30,06 AU (4.497,1 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 164,81 năm
- Chu kì tự quay: 19,1 giờ
- Khối lượng : 1,02x1026 kg
- Đường kính: 48.600km
- Nhiệt độ bề mặt: 48K
- Số vệ tinh: 13

Vì sao hành tinh cua Hệ mặt trời có những tên theo tên các vị thần/


Hệ Mặt Trời được biết đến với 8 hành tinh tính từ trong (gần Mặt Trời nhất) ra gồm: Sao Thuỷ (Mercury), Sao Kim (Venus), Trái Đất (Earth), Sao Hoả (Mars), Sao Mộc (Jupiter), Sao Thổ (Saturn), Sao Thiên Vương (Uranus) và Sao Hải Vương (Neptune).
Sao Thuỷ - Mercury
Hành tinh này được đặt tên tương ứng với từ Hermes trong tiếng Hy Lạp, tên gọi của vị thần truyền tin có đôi giầy có cánh có thể bay đi khắp mọi nơi nhanh hơn cả gió cuốn. Quả đúng như vậy, Sao Thuỷ là hành tinh gần Mặt Trời nhất và có chu kì năm (chu kì quay quanh Mặt Trời) nhỏ nhất trong số các hành tinh, khi quan sát từ Trái Đất, bạn sẽ thấy rõ nó hoàn thành một vòng quay quanh Mặt Trười nhanh như thế nào.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 0,39 AU (57,9 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 87,96 ngày (ngày Trái Đất)
- Chu kì tự quay : 58,7 ngày
- Khối lượng : 3,3 x 10­23 kg
- Đường kính: 4.878km
- Nhiệt độ bề mặt: đêm khoảng 100K còn ngày là khoảng 700K
- Số vệ tinh: không

Sao Kim – Venus
Mỗi năm sẽ có vài tháng bạn thấy Sao Mai mọc lên buổi sớm ở chân trời Đông và vài tháng khác lại thấy Sao Hôm lúc Mặt rời lặn ở chân trời Tây. Chúng rất đẹp và rất sáng, cả 2, thật ra đều là một hành tinh duy nhất – Sao Kim. Nó là thiên thể sáng nhất bầu trời đêm của chúng ta (không tính Mặt Trăng), vẻ đẹp của nó làm người thời xưa đặt tên nó là Venus, theo tiếng Hy Lạp là Aphrodite – nữ thần tình yêu và sắc đẹp.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 0,723 AU (108,2 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 224,68 ngày
- Chu kì tự quay: 243 ngày
- Khối lượng : 4,87x1024 kg
- Đường kính: 12.104 km
- Nhiệt độ bề mặt: 726K
- Số vệ tinh: không


Trái Đất – Earh
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 1 AU (149,6 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 365,26 ngày
- Chu kì tự quay: 24 giờ
- Khối lượng : 5,98x1024 kg
- Đường kính: 12.756km
- Nhiệt độ bề mặt: 260 – 310K
- Số vệ tinh: 1 - Mặt Trăng


Sao Hoả - Mars
Hành tinh có màu đỏ như lửa, trong khi người phương Đong gọi nó là “Hoả” thì ở phương Tây, nó được gắn cho cái tên Mars – tên của thần chiến tranh Ares trong thần thoại Hy Lạp - vị thần hiếu chiến mà mỗi nơi thần đi qua thì luôn để lại một màu đỏ của lửa và máu.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 1,524 AU (227,9 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 686,98 ngày
- Chu kì tự quay: 24,6 giờ
- Khối lượng : 6,42x1023 kg
- Đường kính: 6.787km
- Nhiệt độ bề mặt: 150 – 310K
- Số vệ tinh: 2 – Phobos và Deimos


Sao Mộc – Jupiter
Là hành tinh lớn nhất hệ Mặt Trời, Sao Mộc hoàn toàn xứng đáng với cái tên Jupiter, mà theo tiếng Hy Lạp là Zeus – chúa tể của các vị thần. Sao Mộc cũng là hành tinh có nhiều vệ tinh nhất cũng như nhiều hiện tượng được quan tâm trong số 8 hành tinh của Hệ Mặt Trời.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 5,203 AU (778,3 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 29,456 năm
- Chu kì tự quay: 9,84 giờ
- Khối lượng : 1,9x1027 kg
- Đường kính: 142.796km
- Nhiệt độ bề mặt: 120K (nhiệt độ lớp khí bề mặt)
- Số vệ tinh: 63 vệ tinh đã được đặt tên và nhiều vật thể nhỏ chuyển động xung quanh.


Sao Thổ - Saturn
Nhiều người coi đây là hành tinh đẹp nhất trong số 7 hành tinh của Hệ Mặt Trời (không tính Trái Đất) do cái vành đai (Saturn’s ring) tuyệt đẹp của nó. Sao Thổ được đặt tên là Saturn, theo tiếng Hy Lạp là Cronus – cha của thần Zeus, người bị thần Zeus lật đổ khỏi vị trí cai quản các vị thần.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 9,536 AU (1.427 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 29,45 năm
- Chu kì tự quay: 10,2 giờ
- Khối lượng : 5,69x1026 kg
- Đường kính: 120.660km
- Nhiệt độ bề mặt: 88K
- Số vệ tinh: 56 vệ tinh đã đặt tên và rất nhiều thiên thạch lớn nhỏ trong vành đai quay quanh.


Sao Thiên Vương – Uranus
Hành tinh này được phát hiện ra vào ngày 13/3/1781 bởi nhà thiên văn William Herschel. Nó được đặt tên theo tên của Uranus - thần bầu trời, cha của Cronus, tức là ông nội của thần Zeus, người từng bị Cronus giết chết để cướp ngôi.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 19,18 AU (2.871 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 84,07 năm
- Chu kì tự quay: 17,9 giờ
- Khối lượng : 8,68x1025 kg
- Đường kính: 51.118km
- Nhiệt độ bề mặt: 59K
- Số vệ tinh: 27


Sao Hải Vương – Neptune
Được phát hiện ngày 23 tháng 9 năm 1846, hành tinh này được đặt tên là Neptune do nó có màu xanh như nước biển. Neptune theo tiếng Hy Lạp là Poseidon – anh trai của thần Zeus, vị thần cai quản tất cả các đại dương trên thế giới.
*Các số liệu:
- Khoảng cách từ Mặt Trời : 30,06 AU (4.497,1 triệu km)
- Chu kì quay quanh Mặt Trời: 164,81 năm
- Chu kì tự quay: 19,1 giờ
- Khối lượng : 1,02x1026 kg
- Đường kính: 48.600km
- Nhiệt độ bề mặt: 48K
- Số vệ tinh: 13